BÀI TUYÊN TRUYỀN
LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Kính thưa: Toàn thể nhân dân!
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại kỳ
họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIV đã thông
qua Luật Phòng, chống tham nhũng, thay thế Luật Phòng, chống tham nhũng số
55/2005/QH11, Luật số 01/2007/QH12 và Luật số 27/2012/QH13. Chủ tịch nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố số 14/2018/L-CTN ngày
04/12/201; Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2019.
Luật PCTN năm 2018 bao gồm 10 chương với 96 điều, với những
nội dung cơ bản sau:
1. Phạm vi điều chỉnh
Đây là nội
dung quan trọng, cơ bản nhất của Luật PCTN năm 2018 làm cơ sở cho việc quy định
về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng và những nội dung khác có liên quan của
Luật.
Điều 1 Luật PCTN năm 2018 quy định về phạm vi điều chỉnh như
sau Luật này quy định về phòng
ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật
về PCTN, như vậy so với Luật hiện hành, Luật PCTN năm 2018 đã thay cụm
từ xử lý người có hành vi tham
nhũng bằng cụm từ xử lý
tham nhũng nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật bao gồm cả việc
xử lý người có hành vi tham nhũng, xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi
khác vi phạm pháp luật về PCTN. Chương VII của Luật đã quy định việc áp dụng
Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, quy định này
thể hiện tinh thần từng bước mở
rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối với khu vực ngoài nhà nước cho
phù hợp với quan điểm chỉ đạo tại Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính
trị về việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng bộ Bộ Luật Hình sự đã mở
rộng quy định xử lý đối với một số tội phạm về tham nhũng trong mọi tổ chức,
doanh nghiệp ngoài nhà nước; phù hợp với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về
Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên.
2. Về những quy
định chung
2.1. Về các hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng cũng như chủ thể
thực hiện hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước
là khác nhau. Do đó, Luật PCTN năm 2018 đã quy định riêng về các hành vi tham
nhũng trong khu vực nhà nước và các hành vi tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
Đối với hành vi tham nhũng trong khu
vực nhà nước, Luật PCTN năm 2018 giữ như quy định của Luật PCTN năm 2005, là
những hành vi do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu
vực nhà nước thực hiện, bao gồm 12 hành vi được quy định tại Điều 2 của Luật,
gồm: (1) Tham ô tài sản; (2) Nhận hối lộ; (3) Lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản; (4) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; (5) Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ,
công vụ vì vụ lợi; (6) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi; (7) Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; (8) Đưa hối
lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc
địa phương vì vụ lợi; (9) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép
tài sản công vì vụ lợi; (10) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; (11) Không thực
hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi; (12) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát,
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ
lợi.
Đối với hành vi tham nhũng khu
vực ngoài nhà nước, do đây là lần đầu tiên Luật mở rộng phạm vi áp
dụng ra khu vực này và để phù hợp với Bộ Luật Hình sự nên Luật PCTN năm 2018
chỉ quy định các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có
chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực
hiện, bao gồm: (1) tham ô tài sản; (2) nhận hối
lộ; (3) đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh
nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.
2.2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức
khu vực ngoài nhà nước trong phòng, chống tham nhũng
Đối với trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, Luật PCTN năm 2018 giữ như quy định của Luật PCTN năm
2005. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm:
(1) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, xử lý
theo thẩm quyền và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tham nhũng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; thực hiện quy định khác của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; (2) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phản ánh,
báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng; (3) Tiếp nhận, xử lý kịp thời phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác,
tin báo về hành vi tham nhũng; (4) Kịp thời cung cấp thông tin và thực
hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong quá
trình phát hiện, xử lý tham nhũng.
Đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực
ngoài nhà nước, để phù hợp với việc mở rộng phạm vi áp dụng, Khoản 2 Điều 4
Luật PCTN năm 2018 đã quy định doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà
nước có trách nhiệm: (1) thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng;
kịp thời phát hiện, phản ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình
theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy chế hoạt động của doanh nghiệp, tổ
chức; (2) kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của cán bộ, công
chức, viên chức và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử
lý hành vi tham nhũng.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Theo quy định
tại Điều
5 Luật PCTN năm 2018, trong phòng, chống tham nhũng, công dân
có quyền và nghĩa vụ sau:
(1) Có quyền phát hiện, phản ánh,
tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo
quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp
luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.
(2) Có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng.
2.4. Về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN
Giáo dục liêm chính là nền tảng quan trọng
trong việc hình thành, giáo dục nhân cách cho các thế hệ trẻ và đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, qua đó nhằm phòng ngừa tham nhũng trong xã hội. So với
Luật PCTN năm 2005, Luật PCTN năm 2018 đã bổ sung quy định: Cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng có trách
nhiệm đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng đối với học sinh trung học phổ thông, sinh viên và cán bộ, công chức,
viên chức theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 6).
2.5. Các hành vi bị nghiêm cấm
Điều 8 Luật PCTN năm 2018 quy định
04 nhóm hành vi bị nghiêm cấm sau:
Thứ nhất, các hành vi tham nhũng quy định tại Điều 2 của Luật, gồm 12 hành
vi tham nhũng trong khu vực nhà nước và 03 hành vi tham nhũng khu vực
ngoài nhà nước.
Thứ hai, hành vi đe dọa, trả thù, trù dập, tiết lộ thông tin về người
phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng.
Thứ ba, hành vi lợi dụng việc phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin,
cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng để vu khống cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân khác.
Thứ tư, hành vi bao che hành vi tham nhũng; cản trở, can thiệp trái pháp
luật vào việc phát hiện, xử lý tham nhũng và các hành vi khác vi phạm pháp luật
về phòng, chống tham nhũng quy định tại Mục 2 Chương IX của Luật PCTN năm 2018.
3. Phòng
ngừa tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (Chương II)
Nội dung quy
định tại Chương II Luật PCTN năm 2018 được áp dụng đối với cơ quan, tổ chức,
đơn vị khu vực nhà nước.
3.1. Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị (Mục 1)
- Công khai,
minh bạch trong từng lĩnh vực khác nhau đã được các luật chuyên ngành quy định
đầy đủ và chặt chẽ cả về nội dung và trình tự, thủ tục. Để đảm bảo không chồng
chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật, Luật PCTN năm 2018 không quy định
công khai, minh bạch trong các lĩnh vực mà chỉ quy định về nguyên tắc, nội
dung, hình thức, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với một số lĩnh vực quan trọng và
các lĩnh vực khác mà pháp luật quy định phải công khai.
- Về trách nhiệm giải trình: Trách nhiệm giải trình là việc cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về
quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao
khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi
quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy quyền hợp
pháp để thực hiện trách nhiệm giải trình. Đồng thời, Luật giao cho Chính phủ
quy định chi tiết về trách nhiệm giải trình.
- Về Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng và tiêu chí đánh giá về
công tác phòng, chống tham nhũng: Xác định việc đánh giá, đo lường về
thực trạng tham nhũng và công tác phòng, chống là đặc biệt quan trọng, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Theo đó, cơ quan
nhà nước có trách nhiệm xây dựng báo cáo, công khai báo cáo về tình hình tham
nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, Luật PCTN năm 2018 quy
định chi tiết về tiêu chí đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng tại Điều
17.
3.2. Xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ (Mục 2)
Thẩm quyền
ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ được thực hiện theo Luật Ngân sách Nhà
nước, các luật chuyên ngành khác và được giao cho nhiều cấp khác nhau phụ thuộc
vào từng loại định mức, tiêu chuẩn, chế độ. Vì vậy, kế thừa Luật PCTN năm 2005,
Luật PCTN năm 2018 chỉ quy định mang tính nguyên tắc trong việc ban hành và
thực hiện các quy định về định mức, tiêu chuẩn, chế độ để không dẫn đến chồng
chéo với các quy định của pháp luật chuyên ngành.
3.3. Thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn (Mục 3)
- Về quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị: Trên cơ sở kế thừa tinh thân của luật PCTN năm 2005, Điều 20 Luật PCTN năm 2018 đã quy định quy tắc ứng xử của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị như Luật PCTN năm 2005 nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, tham nhũng
có thể xảy ra, được quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Cán bộ, công chức,
tuy nhiên có chỉnh lý về mặt kỹ thuật đảm bảo tính hợp lý. - Về tặng quà và nhận quà tặng: Kế thừa Luật PCTN năm 2005,
Luật PCTN năm 2018 đã quy định cụ thể hơn về việc tặng quà. Theo đó, cơ quan,
tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn không được sử dụng tài chính công,
tài sản công làm quà tặng, trừ trường hợp tặng quà vì mục đích từ thiện, đối
ngoại và trong một số trường hợp cần thiết khác. Đối với việc nhận quà tặng có
liên quan đến công việc đang giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của người có
chức vụ, quyền hạn cần phải cấm tuyệt đối để phòng ngừa tham nhũng, Vì vậy,
Khoản 2 Điều 22 Luật PCTN năm 2018 quy định cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có
chức vụ, quyền hạn không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng dưới mọi
hình thức của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến công việc do
mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.
- Kiểm soát xung đột lợi ích: Khoản 9 Điều 3 Luật PCTN năm 2018 quy
định: Xung đột lợi ích là tình
huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích
của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đắn đến việc thực hiện nhiệm vụ,
công vụ. Tuy đây là một khái niệm mới nhưng về nội dung thì trong Luật
PCTN năm 2005 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có quy định. Trên
cơ sở đó, Luật đã quy định người trực tiếp quản lý, sử dụng người có chức vụ,
quyền hạn được áp dụng một trong các biện pháp: Giám sát việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ được giao của người có xung đột lợi ích; đình chỉ, tạm
đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao của người có xung đột lợi
ích; tạm thời chuyển người có xung đột lợi ích sang vị trí công tác
khác. Đồng thời, Luật PCTN năm 2018 cũng đã giao cho Chính phủ quy định
chi tiết về điều này.
3.4. Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức (Mục
4)
Kế thừa quy
định của Luật PCTN năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan,
Luật PCTN năm 2018 tiếp tục quy định nguyên tắc chuyển đổi vị trí công tác, vị
trí công tác phải chuyển đổi (bao
gồm người có chức vụ, quyền hạn làm việc tại một số vị trí liên quan đến công
tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công, trực
tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
khác phải được chuyển đổi vị trí công tác) và thời hạn phải định kỳ
chuyển đổi, kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác. Đối với thời hạn định kỳ
chuyển đổi, Luật PCTN năm 2018 giữ quy định của pháp Luật PCTN năm 2005 là 02
năm đến 05 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực và không quy định thời hạn
chuyển đối đối với các trường hợp đặc biệt. Nhằm bảo đảm phù hợp với tình hình
thực tiễn của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật PCTN năm 2018 quy định cụ thể
việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ có một vị
trí phải định kỳ chuyển đổi công tác sẽ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn
vị sử dụng người có chức vụ, quyền hạn đề nghị với cơ quan có thẩm quyền chuyển
đổi.
3.5. Cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và
thanh toán không dùng tiền mặt (Mục 5)
- Về cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý: đây là
các biện pháp rất quan trọng để phòng ngừa tham nhũng nên kế thừa Luật PCTN năm
2005, Luật PCTN năm 2018 quy định nguyên tắc để Chính phủ, các ngành, các cấp
có trách nhiệm tăng cường thực hiện trong thời gian tới.
- Về thanh toán không dùng tiền mặt: Việc thanh toán không dùng
tiền mặt đang được Chính phủ triển khai thông qua Đề án thanh toán không dùng
tiền mặt. Vì vậy, Luật PCTN năm 2018 quy định các nội dung cơ bản, mang tính
nguyên tắc, định hướng trên cơ sở đó giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện bảo
đảm phù hợp với từng thời kỳ.
4. Kiểm soát
tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị (Mục 6 Chương II)
Đây là một
trong những nội dung mới và thay đổi căn bản so với Luật hiện hành.
4.1. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập
Điều 30 Luật
PCTN năm 2018 đã quy định cụ thể về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo
hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh
kiểm soát tài sản, thu nhập của những người thuộc diện kê khai công tác tại các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ
quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu
trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ
quan, tổ chức mình, cụ thể:
(1) Thanh
tra Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ từ Giám đốc sở
và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan, tổ chức do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước; người có nghĩa vụ
kê khai tài sản, thu nhập thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
(2) Thanh
tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại
cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của
chính quyền địa phương, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền kiểm soát của Thanh tra
Chính phủ.
(3) Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ kiểm soát tài sản, thu nhập của người có
nghĩa vụ kê khai công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước
thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trừ
trường hợp thuộc thẩm quyền kiểm soát của Thanh tra Chính phủ.
(4) Cơ quan
giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác đại biểu kiểm soát tài sản, thu nhập
của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và người có nghĩa vụ kê khai khác
thuộc thẩm quyền quản lý cán bộ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(5) Văn
phòng Quốc hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công
tác tại cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, trừ trường
hợp thuộc thẩm quyền kiểm soát của Cơ quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
công tác đại biểu.
(6) Văn
phòng Chủ tịch nước kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
công tác tại Văn phòng Chủ tịch nước.
(7) Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước kiểm soát
tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai công tác tại Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước.
(8) Cơ quan
có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan trung ương của các tổ chức
chính trị - xã hội kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai
công tác trong hệ thống cơ quan, tổ chức đó.
4.2. Kê khai tài sản, thu nhập
- Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Luật PCTN năm 2018 giữ nguyên
quy định hiện hành về nghĩa vụ kê khai nhưng có điều chỉnh để rõ ràng, cụ thể
hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và mọi
biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành
niên.
- Về người có nghĩa vụ kê khai, tài sản: So với Luật PCTN năm 2005,
Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ,
công chức nhằm mục đích chủ yếu là tạo cơ sở để so sánh, đối chiếu khi họ được
bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn hoặc khi có tài sản, thu nhập biến động trong năm
từ 300 triệu đồng trở lên. Tuy nhiên, Luật PCTN năm 2018 mở rộng đối tượng có
nghĩa vụ kê khai lần đầu nhưng lại thu hẹp diện đối tượng phải kê khai thường
xuyên, kê khai hằng năm nhằm phù hợp với việc thu hẹp đầu mối cơ quan kiểm soát
tài sản, thu nhập và bảo đảm tính khả thi. Điều 34 Luật PCTN năm 2018 đã quy
định đối tượng có nghĩa vụ kê khai là: (1) cán bộ, công chức; (2) sĩ quan
Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; (3)
người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại
đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; (4) người ứng cử đại biểu Quốc hội,
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Về tài sản, thu nhập phải kê khai: Kế thừa Luật PCTN năm 2005 và
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, Luật PCTN năm 2018 quy định chi
tiết hơn về tài sản, thu nhập phải kê khai tại Điều 35 để dễ thực hiện trong
thực tế, theo đó, tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm: (1) Quyền sử
dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở,
công trình xây dựng; (2) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động
sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên; (3) Tài
sản, tài khoản ở nước ngoài; (4) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
- Về phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập: Đây là
một điểm mới cơ bản của Luật PCTN năm 2018. Để khắc phục hạn chế hiện nay và
phù hợp với việc mở rộng người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, thu hẹp
cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập thì Điều 36 Luật PCTN năm 2018 đã quy định
các phương thức kê khai áp dụng cho từng đối tượng kê khai khác nhau, gồm kê
khai lần đầu, kê khai bổ sung, kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán
bộ.
Kê khai lần
đầu và kê khai phục vụ công tác cán bộ: Người đang giữ chức vụ hoặc có vị trí
công tác mà thuộc đối tượng có nghĩa vụ kê khai đều phải thực hiện việc kê khai
lần đầu theo quy định của Luật này nhằm hình thành đồng bộ cơ sở dữ liệu, thông
tin về tài sản, thu nhập của họ kể từ thời điểm Luật có hiệu lực để phục vụ cho
việc kiểm soát tài sản, thu nhập. Đồng thời, tất cả cán bộ, công chức, một số
viên chức hoặc ở vị trí công tác khác khi được tiếp nhận, tuyển dụng vào làm
việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà nước đều phải kê khai. Hình
thức kê khai này hiện đang được thực hiện trong quá trình hình thành hồ sơ quản
lý cán bộ. Những năm công tác tiếp theo, họ không phải kê khai tài sản, thu
nhập hằng năm nếu không có căn cứ phát sinh.
Kê khai hằng
năm và kê khai bổ sung phục vụ cho kiểm soát tài sản, thu nhập: Kê khai hằng
năm chỉ áp dụng đối với những người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương
trở lên, người làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản
công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân khác. Kê khai bổ sung áp dụng đối với người có biến
động tăng về tài sản, thu nhập có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên.
- Về công khai bản kê khai tài sản, thu nhập: Kế thừa Luật PCTN năm 2005,
Luật PCTN năm 2018 tiếp tục quy định bản kê khai được công khai tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
4.3. Xác minh tài sản, thu nhập
- Luật PCTN
năm 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai, thu hẹp Cơ quan có thẩm
quyền kiểm soát tài sản, thu nhập nên việc xác minh toàn bộ các bản kê khai tài
sản, thu nhập là không khả thi. Vì vậy, Điều 41 Luật PCTN năm 2018 đã quy định
các căn cứ xác minh tài sản, thu nhập. So với pháp Luật PCTN năm 2005, Luật
PCTN năm 2018 đã bổ sung một số căn cứ xác minh như khi có dấu hiệu rõ ràng về
việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực; xác minh theo kế hoạch xác
minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu
nhập được lựa chọn ngẫu nhiên. Việc quy định xác minh theo kế hoạch là nhằm
tăng cường ý thức tuân thủ trong kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập của
người có nghĩa vụ kê khai. Đồng thời, để tránh lạm dụng quy định này để trù dập
cán bộ hoặc mục đích vì vụ lợi, Khoản 2 Điều 41 Luật PCTN năm 2018 giao Chính phủ
quy định chi tiết tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác
minh và việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm.
Ngoài ra,
Luật PCTN năm 2018 cũng quy định cụ thể về thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác
minh tài sản, thu nhập tại Điều 42; nội dung xác minh tài sản, thu nhập tại
Điều 43; trình tự xác minh tài sản, thu nhập tại Điều 44, Điều 45, Điều 46,
Điều 48, Điều 49, Điều 50.
- Về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải
trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực: Luật
PCTN năm 2018 quy định cụ thể việc xử lý nghiêm khắc nếu người có nghĩa vụ kê
khai kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm
không trung thực bằng các hình thức như: người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân thì sẽ bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử;
người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ thì không
được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến; người đã được
bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ thì bị áp dụng một trong
các hình thức kỷ luật cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi
việc hoặc bãi nhiệm; người có nghĩa vụ kê khai khác nếu kê khai không trung
thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị
xử lý kỷ luật và tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị áp dụng hình thức xử
lý từ cảnh cáo trở lên là đủ để đảm bảo tính răn đe; nếu được quy hoạch vào
chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch. Đồng
thời, Luật cũng quy định trường hợp họ chủ động xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức,
miễn nhiệm thì có thể được xem xét không kỷ luật.
4.4. Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập
Việc xây
dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập là cần thiết, nhằm
đảm bảo cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập hiệu quả. Vì vậy, Luật PCTN năm
2018 đã bổ sung quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu
nhập (bao gồm thông tin về bản kê
khai, Kết luận xác minh tài sản, thu nhập và các dữ liệu khác có liên quan đến
việc kiểm soát tài sản, thu nhập theo quy định của Luật PCTN năm 2018, được xây
dựng và quản lý tập trung tại Thanh tra Chính phủ); trách nhiệm xây
dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập; bảo vệ,
lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài
sản, thu nhập tại các Điều 52, 53 và 54.
5. Phát hiện
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (Chương III)
5.1. Công tác kiểm tra và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị (Mục
1)
Kế thừa quy
định của Luật PCTN năm 2005, Luật PCTN năm 2018 tiếp tục quy định về công tác
kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước; công tác tự kiểm tra của cơ quan, tổ
chức, đơn vị. Đồng thời, có bổ sung quy định kiểm tra hoạt động chống tham
nhũng trong cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát nhân dân, Tòa án nhân dân tại Điều 57 của Luật.
5.2. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm
toán (Mục 2)
- Kế thừa
Luật PCTN năm 2005, Luật PCTN năm 2018 tiếp tục quy định phát hiện tham nhũng
thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử và xử lý đề
nghị của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử tại Điều 59; phát hiện tham nhũng
thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán tại Điều 60.
- Luật PCTN
năm 2018 đã bổ sung quy định thẩm quyền của cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà
nước trong thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại Điều 61.
Theo đó, Thanh tra Chính phủ
thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và
tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan, tổ chức do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước thực hiện; người
công tác tại Thanh tra Chính phủ thực hiện; Thanh tra Bộ thanh tra vụ việc
có dấu hiệu tham nhũng do người công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc
thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện trừ vụ việc thuộc
thẩm quyền thanh tra của Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh thanh tra vụ
việc có dấu hiệu tham nhũng do người công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị ở
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã thực hiện, trừ trường hợp vụ việc thuộc thẩm
quyền thanh tra của Thanh tra Chính phủ. Các đơn vị trực thuộc Kiểm toán
nhà nước kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại các cơ quan, tổ chức có
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công theo phân công của Tổng Kiểm toán
nhà nước.
- Liên quan
đến việc xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện qua hoạt động
thanh tra, kiểm toán, đây là điểm mới của Luật PCTN năm 2018. Xuất phát từ yêu
cầu thực tiễn nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thanh tra,
kiểm toán nhà nước trong phát hiện và xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng
và thực tiễn thời gian qua cho thấy, các cơ quan này hoàn toàn có đủ điều kiện
để xác minh, làm rõ về tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng thông qua hoạt
động thanh tra, kiểm toán, hơn nữa để chuyển hồ sơ vụ việc có dấu hiệu tội
phạm, vi phạm pháp luật sang cơ quan có thẩm quyền xử lý, các cơ quan này phải
đánh giá được tính chất, mức độ của hành vi vi phạm thì mới có thể xác định
được hành vi đó đã đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử phạt hành chính
để chuyển vụ việc và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý cho phù hợp. Vì vậy,
Luật PCTN năm 2018 quy định trong quá trình thanh tra, kiểm toán nếu phát hiện
vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì người ra quyết định thanh tra, người ra
quyết định kiểm toán phải chỉ đạo
xác minh, làm rõ vụ việc tham nhũng và xử lý như quy định tại Điều
62. Điều này thể hiện đổi mới cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra nhà nước,
Kiểm toán nhà nước với cơ quan điều tra trong việc phát hiện, xử lý các vụ việc
có dấu hiệu tham nhũng và bảo đảm đồng bộ với các quy định trong hệ thống pháp
luật, đặc biệt là với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự cụ thể:
Điều 62. Trách nhiệm xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát
hiện qua hoạt động thanh tra, kiểm toán
Trong quá trình thanh tra, kiểm toán nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu
tham nhũng thì người ra quyết định thanh tra, người ra quyết định kiểm toán
phải chỉ đạo xác minh, làm rõ vụ việc tham nhũng và xử lý như sau:
1. Trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ
việc và kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án hình sự, đồng thời
thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trong trường hợp
này, Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước tiếp tục tiến hành hoạt động thanh
tra, kiểm toán về các nội dung khác theo kế hoạch tiến hành thanh tra, kế hoạch
kiểm toán đã phê duyệt và ban hành Kết luận thanh tra, Báo cáo kiểm toán theo
quy định của pháp luật về thanh tra, pháp luật về kiểm toán nhà nước;
2. Trường hợp vụ việc không có dấu hiệu tội phạm thì kiến nghị cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi vi phạm. Cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý phải thông báo bằng văn bản về kết
quả xử lý cho Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị.
- Về xử lý vi phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm toán: Điều
64 Luật PCTN năm 2018 quy định để xử lý các trường hợp thanh tra, kiểm toán
không phát hiện được tham nhũng, sau đó cơ quan có thẩm quyền lại phát hiện
được tham nhũng. Quy định này nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Cơ quan
thanh tra, Kiểm toán nhà nước trong phát hiện hành vi tham nhũng thông qua hoạt
động thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, về nguyên tắc, để xem xét xử lý kỷ luật,
xử lý hình sự phải trên cơ sở xác định lỗi của người đó và tính chất, mức độ
của hành vi vi phạm. Do đó, Luật PCTN năm 2018 quy định: trường hợp sau khi kết thúc thanh tra, kiểm
toán mà cơ quan có thẩm quyền khác phát hiện có vụ việc tham nhũng xảy ra tại
cơ quan, tổ chức, đơn vị đã tiến hành thanh tra, kiểm toán về cùng một nội dung
thì Trưởng đoàn thanh tra, Trưởng đoàn kiểm toán, thành viên đoàn thanh tra,
thành viên đoàn kiểm toán và cá nhân có liên quan đã tiến hành thanh tra, kiểm
toán trước đó nếu có lỗi thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, phải bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
5.3. Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng
Luật PCTN
năm 2018 đã mở rộng hơn các hình thức tiếp nhận thông tin về tham nhũng so với
quy định của Luật PCTN năm 2005, bao gồm: phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành
vi tham nhũng. Như vậy, việc cung cấp thông tin về tham nhũng có thể được thực
hiện bằng các hình thức khác nhau như phản ánh, tố cáo, báo cáo. Qua đó, giúp
các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, thu thập các thông tin về tham
nhũng nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời. Quy định về phản ánh, tố
cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng giúp khuyến khích cá nhân, tổ chức cung cấp
thông tin về hành vi tham nhũng, Đồng thời, Luật cũng quy định rõ hơn trách
nhiệm tiếp nhận và xử lý phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng tại
Điều 65, Điều 66.
Luật Tố cáo
năm 2018 đã quy định chi tiết về việc bảo vệ người tố cáo, trong đó có cả việc
bảo vệ những người thân thích của người tố cáo. Đồng thời, việc khen thưởng cho
người tham gia tích cực vào công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng cũng
đã được pháp luật về khen thưởng quy định. Tuy nhiên, đối với việc bảo vệ người
phản ánh, báo cáo thì pháp Luật PCTN năm 2005 chưa có quy định cụ thể, vì vậy,
Điều 67 Luật PCTN năm 2018 quy định người phản ánh, báo cáo về hành vi tham
nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Bên cạnh đó,
Điều 69 Luật cũng quy định trách nhiệm của người phản ánh, tố cáo, báo cáo về
hành vi tham nhũng. Theo đó, người tố cáo hành vi tham nhũng phải chịu trách
nhiệm về việc tố cáo của mình theo quy định của Luật Tố cáo; người phản ánh,
báo cáo về hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
trung thực của nội dung phản ánh, báo cáo.
6. Trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng
(Chương IV)
Theo Luật
PCTN năm 2005, nội dung này nằm trong Chương II về phòng ngừa tham nhũng. Tuy
nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện Luật PCTN năm 2005 cho thấy, các quy định về
trách nhiệm của người đứng đầu còn nhiều bất cập và nhằm thể chế hóa chủ trương
của Đảng tại Nghị quyết Trung ương 2 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, Luật PCTN năm 2018 đã quy định thành
một chương riêng và sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hóa và đề cao vai trò của người
đứng đầu như sau:
- Xác định
rõ nội dung trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong
phòng, chống tham nhũng (Điều 70) để làm rõ căn cứ xác định trách nhiệm khi
người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm của mình,
để xảy ra tham nhũng.
- Quy định
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc áp dụng biện
pháp tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác (Điều 71)
và trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý,
phụ trách (Điều 72).
- Bổ sung
quy định người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách mà chủ động từ chức trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử
lý, trừ trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định này nhằm đề cao
trách nhiệm chính trị của cá nhân người đứng đầu, giúp hình thành văn hóa từ chức khi để xảy ra vi phạm trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Bên cạnh đó, Luật đã quy định các trường hợp giảm nhẹ
hoặc tăng nặng trách nhiệm kỷ luật đối với người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản
lý, phụ trách nhằm hoàn thiện chế định xử lý người đứng đầu theo các giải pháp
được nêu tại Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị.
7. Trách
nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng
Kế thừa Luật
PCTN năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, Luật PCTN năm
2018 tiếp tục quy định có chỉnh lý, bổ sung quy định trách nhiệm của xã hội
trong phòng, chống tham nhũng nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; trách nhiệm của cơ quan
báo chí, nhà báo; trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội
ngành nghề; trách nhiệm của công dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu
tư của cộng đồng.
8. Phòng,
chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
So với Luật
PCTN năm 2005, đây là chương mới, nội dung mới của Luật PCTN năm 2018, thể hiện
sự nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong
phòng, chống tham nhũng và việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật ra khu vực
ngoài nhà nước.
Việc xây
dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng có vai trò hết sức quan
trọng đối với cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Vì vậy, Luật PCTN năm 2018
quy định trách nhiệm của tất cả doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nói chung trong
việc xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh, quy tắc
ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng. Bên cạnh đó, Luật
PCTN năm 2018 quy định việc áp dụng Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu
vực ngoài nhà nước. Theo đó, Luật quy định áp dụng bắt buộc một số chế định của
Luật đối với một số loại hình tổ chức xã hội, doanh nghiệp gồm công ty đại
chúng, tổ chức tín dụng, tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ
Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê
duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ
thiện. Đây là
các doanh nghiệp, tổ chức có huy động vốn đóng góp của nhiều cổ đông, hoạt động
của loại hình doanh nghiệp này (công ty đại chúng) có ảnh hưởng đến sự phát
triển lành mạnh của nền kinh tế hoặc có huy động các khoản đóng góp của
nhân dân để hoạt động từ thiện nên dễ phát sinh tham nhũng, do đó, cần
phải áp dụng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ
chức khu vực ngoài nhà nước. Điều 80 Luật quy định các doanh nghiệp, tổ chức
này áp dụng quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động; kiểm
soát xung đột lợi ích; chế độ trách nhiệm của người đứng đầu như trong khu vực
nhà nước. Đồng thời, Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết về việc áp dụng
các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài
nhà nước.
Với việc quy định áp dụng một số chế
định của Luật PCTN năm 2018 đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà
nước như đề cập ở trên, Luật đã quy định về thanh tra việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
tại Điều 81. Theo đó, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, tránh gây ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của doanh nghiệp, Luật PCTN năm 2018 quy định chỉ khi các
doanh nghiệp, tổ chức đó có dấu
hiệu rõ ràng về việc vi phạm quy định về công khai, minh
bạch, về kiểm soát xung đột lợi ích, về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu
thì cơ quan có thẩm quyền mới được tiến hành thanh tra việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống tham nhũng. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh
tra Chính phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh thanh tra việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống tham nhũng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, tổ chức
xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản
đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện. Bên cạnh đó, để tránh việc một
doanh nghiệp, tổ chức xã hội bị thanh tra nhiều lần bởi nhiều cơ quan thanh tra
khác nhau về cùng một nội dung, Khoản 3 Điều 81 Luật PCTN năm 2018 đã giao cho
Tổng Thanh tra Chính phủ hướng dẫn xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động
thanh tra và Khoản 4 Điều 81 Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về việc
thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức
khu vực ngoài nhà nước.
Cơ quan thanh tra khi tiến hành hoạt
động thanh tra nếu phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu
vực ngoài nhà nước có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có
thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 82).
9. Trách nhiệm
của cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng (Chương VII)
Hiện nay, các đơn vị chuyên trách về
chống tham nhũng trong Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an đã có sự thay đổi về tổ
chức bộ máy nhưng vẫn có chức năng chuyên trách chống tham nhũng. Để tăng cường
trách nhiệm của các đơn vị này trong công tác PCTN thì Luật PCTN năm 2018 tiếp
tục giữ lại quy định về đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng của Luật PCTN
năm 2005. Đồng thời, tiếp tục quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (Điều 86); trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước
(Điều 87). Bên cạnh đó, Luật PCTN năm 2018 đã bổ sung quy định về trách nhiệm
của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ (Điều 84); trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
các cấp (Điều 85) trong công tác phòng, chống tham nhũng.
10. Hợp tác
quốc tế về phòng, chống tham nhũng (Chương VIII)
Nội dung này cơ bản kế thừa quy định
của Luật PCTN năm 2005, có bổ sung thêm quy định về hợp tác quốc tế về thu hồi
tài sản tham nhũng nhằm nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng và nâng
cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Theo đó, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan trung ương về hợp tác quốc tế thu hồi tài
sản tham nhũng trong tố tụng hình sự; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư
pháp hình sự của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng và đề nghị nước ngoài
thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của
Việt Nam (Khoản 3 Điều 91).
11. Xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về
phòng, chống tham nhũng (Chương IX)
Như đã đề cập ở trên, so với Luật PCTN năm 2005, tại Điều 1
Luật PCTN năm 2018 đã thay cụm từ “xử
lý người có hành vi tham nhũng” bằng cụm từ “xử lý tham nhũng” nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật bao
gồm cả việc xử lý người có hành vi tham nhũng, xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân
có hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Chính vì vậy,
Chương IX Luật PCTN đã quy định về xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm
pháp luật về PCTN. Đây là chương có nhiều nội dung mới được bổ sung, thể hiện
sự nghiêm minh trong xử lý tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, tăng cường hiệu quả thực thi Luật PCTN và hiệu quả của
công tác PCTN.
Đối với xử lý tham nhũng, kế thừa Luật PCTN năm 2005, Luật
PCTN năm 2018 tiếp tục quy định về việc xử lý tham nhũng (từ Điều 92 đến Điều 93),
trong đó quy định người có hành vi tham nhũng giữ bất kỳ chức vụ, vị trí công
tác nào đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, kể cả người
đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác và quy định đối với người có hành vi
tham nhũng bị xử lý kỷ luật là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét tăng hịnh thức kỷ luật.
Đối với xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống
tham nhũng, Luật năm 2018 đã bổ sung quy định tại mục 2 Chương IX. Theo đó,
Điều 94 liệt kê các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng và quy
định mang tính nguyên tắc xử lý đối với các hành vi này. Đối với người có hành
vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét áp dụng tăng hình
thức kỷ luật. Người có hành vi vi phạm bị
xử lý kỷ luật nếu là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội thì còn bị xử lý theo điều lệ, quy chế, quy định của tổ
chức đó. Đồng thời, Luật giao Chính phủ quy định chi tiết việc xử lý kỷ luật,
xử phạt vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, Điều 95 Luật PCTN năm 2018 quy định xử
lý hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong
doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Thông qua công tác Tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng năm 2022 sẽ tạo sự chuyển biến
trong nhận thức, hành động, nâng cao hiểu biết pháp luật về PCTN của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động và nhân dân, ngăn ngừa hành vi vi phạm
pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa
bàn xã.
V.P