BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ LUẬT ĐẤT ĐAI
Luật Đất đai được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6
thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014 gồm 14
chương với 212 điều, tăng 7 chương, 66 điều. Luật được ban hành với nhiều điểm
mới nổi bật, trong đó có những quy định liên quan sát thực đến người dân như:
quy định cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ của Nhà nước đối với người sử dụng đất;
mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông
nghiệp; quy định đầy đủ, rõ ràng các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất; xác định rõ và quy định cụ thể những trường hợp Nhà nước phải thu hồi đất;
thể hiện một cách đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất phù hợp từng
hình thức sử dụng đất cụ thể như giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất
có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất...
Luật đất đai sửa đổi năm 2013 ra đời đã thể chế hoá đúng và
đầy đủ những quan điểm, định hướng của Nghị quyết số 19/NQ-TƯ tại Hội nghị lần
6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng thời khắc phục, giải quyết những tồn tại,
hạn chế phát sinh trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003.
Vậy, Luật đất đai 2013 đã có những thay đổi gì, có những cải
tiến như thế nào so với Luật đất đai năm 2003 ? Nhìn chung, Luật đất đai 2013
có 10 điểm mới cơ bản:
Một là, Luật Đất
đai 2013 đã cụ thể hóa các quyền của Nhà nước đối với đất đai như:
quyền của đại diện chủ sở hữu; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; quy định
hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất; quyền quyết định thu hồi, trưng dụng
đất đai; quyền quyết định giá đất; quyết định chính sách tài chính về đất đai
Đồng thời,
Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai như: trách nhiệm
cụ thể của Nhà nước về quản lý đất đai; những bảo đảm của Nhà nước đối với người
sử dụng đất; trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho
đồng bào dân tộc thiểu số; trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung
cấp thông tin đất đai và trách nhiệm của công chức địa chính tại xã, phường,
thị trấn.
Hai là, Luật Đất
đai 2013 đã bổ sung những nội dung cơ bản trong việc điều tra, đánh giá về
tài nguyên đất đai, nhằm khắc phục bất cập hiện nay mà Luật Đất đai năm 2003
chưa có quy định cụ thể; bổ sung những quy định quan trọng trong nguyên
tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhằm khắc phục khó khăn khi lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; bổ sung và quy định rõ quyền và nghĩa vụ sử dụng
đất của người dân trong vùng quy hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Ba là, Luật quy định cụ thể, rõ ràng từ nguyên tắc
đến nội dung và mở rộng dân chủ, công khai trong quá trình lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; quy định về đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong
vùng quy hoạch như: Việc lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất ở cấp quốc gia và cấp tỉnh và cấp huyện được thực hiện thông qua hình thức
công khai thông tin về nội dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên trang
thông tin điện tử theo quy định.
Ngoài ra,
Luật thiết lập sự bình đẳng hơn trong việc tiếp cận đất đai giữa nhà đầu
tư trong và nước ngoài; quy định cụ thể điều kiện được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư nhằm lựa chọn được nhà
đầu tư có năng lực thực hiện dự án. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định về điều
kiện được giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án có sử dụng đất trồng
lúa, đất có rừng, dự án đầu tư tại khu vực biên giới, ven biển và hải đảo.
Bốn
là, một trong những điểm mới quan
trọng của Luật Đất đai năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua là những quy định
về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất. Luật bổ sung quy định về các trường hợp đăng ký lần đầu,
đăng ký biến động, đăng ký đất đai điện tử; bổ sung quy định trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của nhiều người thì cấp mỗi
người một giấy chứng nhận, hoặc cấp chung một sổ đỏ và trao cho người đại diện.
Tuy nhiên, giấy chứng nhận phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền
sử dụng đất, nhà ở hay tài sản gắn liền với
đất.
Trường hợp
đất là tài sản chung của vợ chồng thì giấy chứng nhận ghi cả họ, tên vợ và họ,
tên chồng (trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận ghi tên một người). Nếu giấy
chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang giấy
chứng nhận mới để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có nhu cầu.
Luật Đất
đai 2013 cũng quy định cụ thể hơn những trường hợp sử dụng đất được cấp sổ đỏ;
cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
có và không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất. Mặc dù Luật mới quy định cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất được cấp theo từng thửa đất nhưng nếu người sử dụng đất đang sử dụng
nhiều thửa đất nông nghiệp tại cùng một xã, phường, thị trấn mà có yêu cầu thì
được cấp một giấy chứng nhận chung cho các thửa đất đó.
Một điểm mới
khác liên quan đến đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được Ủy ban nhân
dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng dân cư, thì được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất.
Luật cũng
quy định những trường hợp có thể cấp giấy chứng nhận ngay cả khi không có giấy
tờ về quyền sử dụng đất. Theo đó, những hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất
trước ngày Luật có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ Luật quy định vẫn
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Đối với hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ theo quy định nhưng đất đã được sử
dụng ổn định từ trước ngày 1/7/2014 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay
được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất phù hợp với quy hoạch sử dụng sẽ
được cấp giấy chứng nhận. Ngoài ra, Luật đã giao cho Chính phủ quy định các
loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 được xét cấp giấy chứng
nhận nhằm giải quyết những vướng mắc trên thực tiễn.
Năm là, Luật quy định cụ thể và đầy đủ từ việc
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư đảm bảo
một cách công khai, minh bạch và quyền lợi của người có đất thu
hồi nhằm khắc phục, loại bỏ những trường hợp thu hồi đất làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của người sử dụng đất đồng thời khắc phục một cách có hiệu quả
những trường hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, tạo nên
các dư luận xấu trong xã hội.
Đặc biệt,
Luật Đất đai 2013 cũng quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp không
đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử
dụng; quy định đầy đủ, rõ ràng về những trường hợp thật cần thiết
mà Nhà nước phải thu hồi; quy định giá đất bồi thường không áp dụng
theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Sáu
là, Luật Đất đai 2013 quy định rõ
nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại
thời điểm định giá, theo thời hạn sử dụng đất; bổ sung quy định về cơ quan xây
dựng, cơ quan thẩm định giá đất, vị trí của tư vấn giá đất trong việc xác định
giá đất, thẩm định giá đất và việc thuê tư vấn để xác định giá đất cụ thể. Luật
quy định khung giá đất do Chính phủ ban hành, định kỳ 05 năm một lần đối với
từng loại đất, theo từng vùng; bỏ quy định việc công bố bảng giá đất vào ngày
01/01 hàng năm, thay vào đó, bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm một lần
và công bố công khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ. Bảng giá đất chỉ áp dụng
đối với một số trường hợp thay cho việc áp dụng cho tất cả các mục đích như quy
định hiện hành.
Bảy là, Luật cũng quy định rõ ràng các đối tượng được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất và điều kiện để triển khai thực hiện các dự án đầu tư để Nhà nước
giao đất, cho thuê đất. Qua đó, có thể khắc phục một cách có hiệu quả việc giao
đất, cho thuê đất một cách tràn lan, chưa tính đến năng lực của các chủ đầu tư
trong việc triển khai các dự án gây nên tình trạng sử dụng đất lãng phí, kém
hiệu quả như trong thời gian vừa qua.
Luật Đất
đai 2013 cũng được hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ
của cá nhân, hộ gia đình và tổ chức sử dụng đất phù hợp với từng hình thức như
giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất và quy định các điều kiện khi người sử dụng
đất thực hiện các quyền của mình. Bên cạnh đó, Luật quy định bình đẳng hơn về
quyền và nghĩa vụ về đất giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài, tạo cơ chế thu hút cho đầu tư phát triển kinh tế của tổ chức nước ngoài.
Tám là, Luật quy
định hoàn chỉnh hơn các chính sách đất đai đối với khu vực nông nghiệp; hoàn
thiện hơn quy định về chế độ sử dụng đất đối với sử dụng cho khu công nghiệp,
khu công nghệ cao và khu kinh tế; bổ sung quy định việc sử dụng đất để xây dựng
công trình ngầm, đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Chín là, Luật đã dành một chương để quy định về việc xây dựng hệ
thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai, hệ thống giám sát, theo dõi,
đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất đai được công khai, minh bạch và đảm
bảo dân chủ trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân và đảm bảo quyền
tiếp cận thông tin đất đai của mọi người dân. Theo đó, công dân có
quyền tự mình hoặc thông qua các tổ chức đại diện thực hiện quyền giám sát và
phản ánh các sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai. Hình thức giám sát là
trực tiếp thực hiện quyền giám sát thông qua việc phản ánh, gửi đơn kiến nghị
đến các cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết; Hoặc gửi đơn kiến nghị đến các
tổ chức đại diện được pháp luật công nhận để các tổ chức này thực hiện việc
giám sát.
Mười là, Luật mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho
hộ gia đình, cá nhân sản suất nông nghiệp; mở rộng hạn mức nhận
chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp ứng
yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại phù
hợp với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: Nâng thời hạn giao
đất nông nghiệp trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50
năm, thống nhất cho các loại đất nông nghiệp (đất trồng cây hàng năm và đất
trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp); cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ với
diện tích lớn hơn (không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp).
Trên đây là
10 điểm mới của luật đất đai năm 2013 so với luật đất đai năm 2003, UBND xã Gia
Thanh tuyên truyền để nhân dân trong địa bàn xã được biết./.
V.P