BÀI
TUYÊN TRUYỀN
LUẬT TIẾP CÔNG DÂN
Ngày 25/11/2013, tại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật
Tiếp công dân và Luật đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 17/2013/L-CTN
ngày 06/12/2013. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Luật gồm 9
chương, 36 điều quy định về trách nhiệm tiếp công dân; quyền và nghĩa vụ của
người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ chức hoạt động tiếp
công dân tại Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của cơ quan, tổ chức,
đơn vị và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân.
Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của
Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được
các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý,
khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp cho Đảng và Nhà
nước tiếp nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn đề nảy sinh
từ cuộc sống, từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác này, thời gian
qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật
về tiếp công dân; các cơ quan, tổ chức đã triển khai, thực hiện có hiệu quả
công tác này.
Do vậy, ngày 25/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Tiếp công dân và
Luật đã được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 17/2013/L-CTN ngày 06/12/2013.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Luật gồm 9 chương, 36 điều
quy định về trách nhiệm tiếp công dân; quyền và nghĩa vụ của người đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ chức hoạt động tiếp công dân
tại Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của cơ quan, tổ
chức, đơn vị và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân.
Luật gồm 9 chương với tổng số 36 điều, với bố cục:
Chương I: "Quy định chung", gồm 9 điều, từ Điều 1
đến Điều 6. Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ,
nguyên tắc tiếp công dân, trách nhiệm tiếp công dân, quản lý công tác tiếp công
dân và các hành vi bị nghiêm cấm.
Chương II: "Quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh; trách nhiệm của người tiếp công dân", gồm 3
điều, từ Điều 7 đến Điều 9. Chương này quy định về quyền và nghĩa vụ của người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; trách nhiệm của người tiếp công dân
và những trường hợp được từ chối tiếp người đến nơi tiếp công dân.
Chương III: "Tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân ở
Trung ương, Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh, Trụ sở tiếp công dân cấp huyện; việc
tiếp công dân cấp xã" (gồm 6 điều, từ Điều 10 đến Điều 15). Chương này quy
định về Trụ sở tiếp công dân, tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân ở Trung
ương; tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh; tiếp công dân tại Trụ sở
tiếp công dân cấp huyện; nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Ban tiếp công dân; việc
tiếp công dân ở xã, phường, thị trấn.
Chương IV: "Tiếp công dân tại cơ quan hành chính
nhà nước; tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước"
gồm 4 điều, từ Điều 16 đến Điều 19.Chương này quy định về việc tổ chức tiếp
công dân tại cơ quan hành chính nhà nước, tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong việc
tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân.
Chương V: "Tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp", gồm 4 điều, từ Điều 20 đến Điều 23. Chương này quy định về việc tiếp
công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời giao Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định chi tiết các vấn đề này.
Chương VI: "Hoạt động tiếp công dân của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân", gồm 5 điều, từ Điều 24 đến Điều 28, trong đó quy
định về công bố thông tin về việc tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân; tiếp và xử lý bước đầu khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; phân
loại, chuyển nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến cơ quan, người
có thẩm quyền thụ lý, giải quyết; trách nhiệm thông báo cho Ban tiếp công dân,
người tiếp công dân về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
được chuyển đến; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh.
Chương VII: "Trách nhiệm tiếp và xử lý trường hợp nhiều
người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung", gồm 4
điều, từ Điều 29 đến Điều 32. Chương này quy định về trách nhiệm tiếp và xử lý
trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội
dung; tiếp và xử lý trường hợp nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh về một nội dung tại nơi tiếp công dân; trách nhiệm phối hợp của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tiếp và xử lý trường hợp nhiều
người cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; trách nhiệm của Tổng Thanh
tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh.
Chương VIII: "Điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công
dân", gồm 2 điều, từ Điều 33 đến Điều 34, trong đó quy định về điều kiện
đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân và tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với
người tiếp công dân.
Chương IX: "Điều khoản thi hành", gồm 2 điều, Điều
35 quy định về hiệu lực thi hành và Điều 36 quy định về hướng dẫn thi hành Luật
tiếp công dân.
Cụ thể Luật tiếp công dân có một số điều mà dân cư trên địa
bàn phường cần lưu ý như sau:
Về phạm vi điều chỉnh:
là những vấn đề cơ bản nhất về tổ chức và hoạt động tiếp công dân, gồm các cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của công dân và
trách nhiệm của người tiếp công dân, trụ sở tiếp công dân, trình tự, thủ tục
tiếp công dân; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân (kinh phí, chế
độ chính sách đối với người tiếp công dân). Với tinh thần đó, khoản 1 Điều 1
Luật tiếp công dân quy định:
"Luật này quy định về trách nhiệm tiếp công dân;
quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ
chức hoạt động tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân
của cơ quan, tổ chức, đơn vị và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công
dân".
Ngoài ra, Luật cũng quy định việc tiếp đại diện của cơ quan,
tổ chức đến khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, tiếp người nước ngoài đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được thực hiện như đối với tiếp công dân.
Về trách nhiệm tiếp công dân: Điều 4 của Luật đã quy định một cách đầy đủ về các cơ quan,
tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân. Theo đó, các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm tổ chức tiếp công dân bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ;
tổng cục và tổ chức tương đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các cơ
quan của Quốc hội; Hội đồng nhân dân các cấp; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Kiểm toán Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có
trách nhiệm tiếp công dân theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ
chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội,
cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức việc tiếp công dân
phù hợp với yêu cầu, quy mô, tính chất hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
mình.
Căn cứ vào quy định của Luật này, cơ quan trung ương của tổ
chức chính trị, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội
quy định về việc tiếp công dân trong cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống mình;
Chính phủ quy định cụ thể việc tiếp công dân tại các cơ quan thuộc Chính phủ,
đơn vị sự nghiệp công lập.
Về quyền và nghĩa vụ của công dân đến khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh: Trên cơ sở
kế thừa các quy định còn phù hợp của Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 về việc ban
hành Quy chế tổ chức tiếp công dân và Chương V của Luật khiếu nại năm 2011 quy
định về tiếp công dân, Luật đã quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và quyền, nghĩa vụ của người tiếp công
dân.
Điều 7 của Luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của
người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Theo đó, khi đến nơi tiếp
công dân, người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có các quyền sau:
Trình bày về nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Được hướng
dẫn, giải thích về những nội dung liên quan đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của mình; Khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người
tiếp công dân; Nhận thông báo về việc tiếp nhận, kết quả xử lý khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh; Trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh không sử dụng thông thạo tiếng Việt thì có quyền sử dụng người phiên dịch;
Các quyền khác theo quy định của pháp luật về khiếu nại, pháp luật về tố cáo.
Tương ứng với các quyền, khoản 2 Điều 7 của Luật cũng quy
định về nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, bao gồm:
Nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tuỳ thân, giấy ủy quyền
(nếu có); Có thái độ đúng mực, tôn trọng đối với người tiếp công dân; Trình bày
trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; ký hoặc điểm chỉ xác nhận những nội dung
trình bày đã được người tiếp công dân ghi chép lại; Nghiêm chỉnh chấp hành nội
quy tiếp công dân và hướng dẫn của người tiếp công dân; Trường hợp nhiều người
cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung thì phải cử người
đại diện để trình bày nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung khiếu nại, tố cáo của mình.
Về trách nhiệm của người tiếp công dân: Điều 8 của Luật cũng quy định về trách nhiệm của người tiếp
công dân, đó là: Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục
chỉnh tề, có đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định; Yêu cầu
người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc
xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày rõ
ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài
liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc; Có thái độ đúng mực, tôn
trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh trình bày; Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật, kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền; hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ
quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết; Trực tiếp xử lý hoặc phân loại,
chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công
dân; Yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm;
trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan
chức năng xử lý theo quy định của pháp luật.
Các quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công
chức trong hoạt động tiếp công dân, đồng thời đảm bảo thiết lập trật tự kỷ
cương tại nơi tiếp công dân và ngăn chặn trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại,
tố cáo để gây rối trật tự công cộng.
Về trụ sở tiếp công dân, việc tiếp công dân ở cấp xã: trên cơ sở kế thừa các quy định về tiếp công dân còn phù
hợp trong các nghị định của Chính phủ về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, nhất là nội dung của Quyết định 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân, Chương III
của Luật đã quy định về việc tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân ở Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện và việc tiếp công dân tại cấp xã.
Ở cấp xã, việc tiếp công dân của cấp ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện tại trụ sở Ủy ban nhân dân. Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã trực tiếp phụ trách công tác tiếp công dân.
Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong công tác
tiếp công dân: Để nâng cao trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, Điều 18 của Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của họ trong
công tác tiếp công dân. Theo đó, người đứng đầu các cơ quan có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp công dân của cơ quan mình; đồng thời trực
tiếp tiếp công dân ít nhất 01 ngày trong 01 tháng tại địa điểm tiếp công dân
của cơ quan mình. Ngoài ra, người đứng đầu cơ quan còn có trách nhiệm tiếp công
dân đột xuất trong những trường hợp nhất định. Luật cũng quy định khi tiếp công
dân, người đứng đầu cơ quan phải có ý kiến trả lời về việc giải quyết vụ việc
cho công dân. Trường hợp chưa trả lời ngay được thì chỉ đạo các cơ quan, tổ
chức, đơn vị, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình kịp thời xem
xét, giải quyết và thông báo thời gian trả lời cho công dân (Điều 18). Quy định
này nhằm xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn
vị trong công tác tiếp công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Ngoài những nội dung chính nêu trên, Luật tiếp công dân còn
quy định về nguyên tắc tiếp công dân, quản lý công tác tiếp công dân, các hành
vi bị nghiêm cấm, những trường hợp được từ chối tiếp công dân, điều kiện đảm
bảo cho hoạt động tiếp công dân và điều khoản thi hành./.
V.P